Hệ thống Sở hữu trí tuệ
(SHTT) đã trở thành công cụ quan trọng
để phát triển và sử dụng nguồn tài nguyên tri thức. Cùng với xu thế toàn cầu
hóa và phát triển kinh tế tri thức, SHTT trở thành động lực phát triển kinh tế,
duy trì lợi thế cạnh tranh và xây dựng quốc gia sáng tạo.
Xác định được
tầm quan trọng của SHTT, Chính phủ đã giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng
Chiến lược Sở hữu trí tuệ quốc gia. Đến ngày 22/8/2019, Chiến lược Sở hữu trí
tuệ đến năm 2030 đã được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 1068/QĐ-TTg, Chiến lược SHTT được xây dựng với mục tiêu
tạo ra hệ thống SHTT quốc gia hiệu quả gồm 3 yếu tố: sáng tạo, bảo hộ và khai
thác SHTT.
Chiến lược gồm
3 nội dung chính: Quan điểm chỉ đạo; các mục tiêu chiến lược tổng quát và cụ thể
đến năm 2030; các nhiệm vụ, giải pháp của hệ thống sở hữu trí tuệ.
Ngoài mục tiêu đưa Việt Nam thuộc nhóm các nước
dẫn đầu ASEAN về trình độ sáng tạo, bảo hộ và khai thác quyền SHTT đến năm
2030. Mục tiêu khác là việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với
giống cây trồng bảo đảm nhanh chóng, minh bạch, công bằng, đáp ứng kịp thời yêu
cầu của doanh nghiệp và xã hội. Hiệu quả thực thi pháp luật SHTT được nâng cao
rõ rệt, tình trạng xâm phạm quyền SHTT giảm đáng kể.
Bên cạnh đó,
tài sản trí tuệ mới của cá nhân, tổ chức Việt Nam gia tăng cả về số lượng và chất
lượng, cải thiện vượt bậc các chỉ số về SHTT của Việt Nam trong chỉ số đổi mới
sáng tạo toàn cầu (GII): Số lượng đơn đăng ký sáng chế và văn bằng bảo hộ sáng
chế tăng trung bình 16 – 18%/năm; số lượng đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp
tăng trung bình 6 – 8%/năm; số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu tăng trung bình 8 –
10%/năm; số lượng đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng tăng trung bình 12 –
14%/năm trong số đó được đăng ký bảo hộ ở nước ngoài; đưa Việt Nam trở thành
trung tâm bảo hộ giống cây trồng với việc hình thành cơ quan bảo hộ giống cây
trồng khu vực ASEAN+.
Ngoài ra, hiệu
quả sử dụng quyền SHTT được nâng cao và gia tăng đáng kể số lượng sản phẩm có
hàm lượng SHTT cao. Cụ thể: Hoạt động khai thác, thương mại hóa tài sản trí tuệ
được chú trọng, đẩy mạnh, tỷ lệ sáng chế được khai thác thương mại đạt 8 – 10%
số sáng chế được cấp văn bằng bảo hộ; có ít nhất 1 – 2 giống cây trồng được
khai thác quyền ở nước ngoài; số lượng doanh nghiệp sử dụng hiệu quả công cụ SHTT
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh đáng kể; phát triển được một số ngành công
nghiệp có mức độ sử dụng tài sản trí tuệ cao, đặc biệt là các ngành công nghiệp
ưu tiên và có lợi thế cạnh tranh, gia tăng đáng kể đóng góp của các ngành này
vào tăng trưởng GDP; chỉ dẫn địa lý, nguồn gen, tri thức truyền thống, bí quyết
kỹ thuật, văn hóa dân gian được bảo hộ và khai thác hiệu quả trong các hoạt động
sản xuất, kinh doanh; phát triển được các ngành công nghiệp văn hóa dựa trên
quyền tác giả và quyền liên quan nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm sáng tạo
đa dạng, chất lượng cao; phấn đấu đến năm 2030 doanh thu của các ngành
công nghiệp văn hóa dựa trên quyền tác giả, quyền liên quan đóng góp khoảng 7%
GDP tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội.
Để thực hiện được
các mục tiêu trên, Chiến lược đã vạch rõ 09 nhiệm vụ về hoàn thiện chính sách,
pháp luật về SHTT; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về SHTT; tập
trung đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động thực thi quyền SHTT; thúc đẩy các
hoạt động tạo ra tài sản trí tuệ; khuyến khích, nâng cao hiệu quả khai thác tài
sản trí tuệ; phát triển các hoạt động hỗ trợ về SHTT; tăng cường nguồn nhân lực
cho hoạt động sở hữu trí tuệ; hình thành văn hóa SHTT trong xã hội; tích cực,
chủ động hợp tác và hội nhập quốc tế về SHTT. Đối với mỗi nhiệm vụ, Chiến lược
cũng được ra từng giải pháp cụ thể.
Chiến lược
này ra mục tiêu, cách thức, giải pháp để góp phần phát triển kinh tế - xã hội
nói chung và phục vụ cho lĩnh vực SHTT nói riêng.
Đính kèm Quyết định số 1068/QĐ-TTg.
(Tổng hợp từ:
https://khoahocvacongnghevietnam.com.vn/; http://baochinhphu.vn/).
Văn phòng Sở
KH&CN (Trúc Phương)